Các bài viết về
Thư pháp
Textes sur la calligraphie vietnamienne.
01- Thư Pháp Việt Nam
02- Thư Pháp Việt và những lý luận cơ bản
Trích từ trang: http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=4235&z=2
Thư pháp Việt
Nam
Friday, May 14, 2004
Việt Nam thuở
xưa, vào mỗi dịp Xuân về, người dân hay đến nhà những «Thầy Ðồ» hay những
người «hay chữ» để xin chữ về treo như một bức tranh, vừa là món đồ trang trí
nhưng cũng vừa là món ăn tinh thần. Thầy đồ hay người hay chữ cho chữ bằng cách
viết một hay nhiều chữ trên một tờ giấy lớn, với nội dung mang tính cách chúc
tụng hay giáo dục, nét chữ thường được khen là đẹp như rồng bay phượng múa. Lối
viết như vậy được gọi là Thư Pháp. Thư Pháp là phương pháp viết chữ (đẹp).
Thư pháp là một môn nghệ thuật phát xuất từ Trung Hoa và đã được các nước Nhật,
Triều Tiên, Việt Nam âm thầm chấp nhận và lặng lẽ duy trì.
Ðối với phương Tây, thư pháp được thực hiện bằng nhiều phương tiện : bút sắt,
cọ, thước, compa, êke...Con chữ được nắn nót theo chuẩn mực và tỷ lệ. Ðó là cái
đẹp của các con chữ theo thị giác người sử dụng hệ chữ La Tinh.
Ðối với người phương Ðông, nói đến môn Thư pháp, người ta thường nghĩ đến cách
viết chữ Hán với phong cách đặc biệt... Với cây bút lông, mực và giấy người
Trung Hoa đã đưa nghệ thuật viết chữ vươn lên đỉnh cao với lý thuyết phong phú,
mang tính triết học, thiền học.
Ở Việt-Nam vào thời điểm nầy, có lẽ ngoại trừ một số người lớn tuổi thâm Nho mới
đọc được chữ Hán, chữ Nôm, chớ còn hầu hết là không đọc được.
Bởi vậy tại sao ta không viết thư pháp bằng tiếng Việt ? Viết chữ Việt cũng đẹp
vậy, bởi vì sao giải thích được : « Sao là đẹp ? Sao là không đẹp ? » (KTS
Nguyễn Thanh Sơn)
« Biết đâu cái gọi là đẹp đối với ta, chắc gì gọi là đẹp đối với kẻ khác !...
biết đâu cái gọi là đẹp đối với ta bây giờ chắc gì gọi là đẹp đối với ta sau
nầy” (Trang Tử).
Thư pháp bằng tiếng Việt: Theo các bậc khoa giáp thời xưa, việc chọn một câu văn
một bài thơ để viết lên trang giấy là việc cần hết sức cẩn trọng. Vì ngoài việc
thể hiện nét bút tài hoa, năng khiếu viết chữ, nội dung một bức thư pháp còn cho
thấy tư tưởng, kiến thức, tâm hồn của người viết. Khi cầm bút, ngoài thể hiện
những đường nét rồng bay phượng múa, các thư pháp gia còn phải "nhiếp tâm" với
những gì mình sắp sửa viết ra.
Phong trào viết Thư pháp bằng tiếng Việt đã được khôi phục một cách mạnh mẽ từ
khoãng 10 năm nay. Bên Việt Nam nhiều Câu Lạc Bộ viết Thư pháp được thành lập
trong các thành phố lớn, đã có nhiều "Thư pháp gia" tổ chức những cuộc triển lãm
thư pháp như những hoạ sĩ triển lãm tranh vẽ. Tôi xin giới thiệu với bạn sơ lược
về bộ môn nầy.
Mới nhìn qua, chúng ta có thể nghĩ là bộ môn nầy khá dễ, muốn viết sao cũng
được, miễn cho đẹp thì thôi ! Thật ra môn Thư pháp cũng có nhiều qui tắc, sau
đây là vài nguyên tắc chánh.
Chương pháp: tức là nguyên cứu phương pháp phân bố chữ với chữ, hàng với hàng,
và các hàng với toàn bộ bức thư pháp. Một bức thư pháp thành công hay không là
do ở chương pháp.
-Ðầu câu không thụt vô.
-Các hàng đều và dài bằng nhau
-Một chữ lẻ loi không đứng thành một hàng
-Khoảng trống ở hàng cuối không dài hơn phân nửa chiều dài của hàng
-Không dùng dấu chấm câu.
Ấn chương (hay con dấu, con triện) là một nét văn hoá rất độc đáo của người
Trung Quốc.
Ấn chương là một yếu tố quan trọng của một bức thư pháp hay một bức họa. Ðặt
đúng vị trí, ấn chương tăng thêm gía trị của tác phẩm, ngược lại sẽ làm hỏng nó.
Nghiên cứu kỷ ấn chương, người ta có thể giám định một bức thư họa là chính bản
hay ngụy tạo.
Nguyên tắc khắc ấn triện là khắc chìm hoặc khắc nổi :
-Khắc chìm khi in ra có nét chữ trắng trên nền đậm.
-Khắc nổi, khi in ra có nét chữ đậm trên nền lợt.
-Loại nữa chìm nữa nổi
Hình dạng bức thư pháp: Có bốn hình dạng chánh
-Hình chữ nhật đứng (Trung đường)
Vị trí đặt con dấu:
Trong các thư tác của người Trung Hoa xưa có nhiều vị trí được qui ước để đóng
dấu như :
-Ðóng ở bên phải, phía trên thư tác gọi là Nhân chương
-Ðóng ở thắc lưng thư tác gọi là Yêu chương
-Ðóng ở phía dưới, bên trái thư tác gọi là Danh chương
-Hình chữ nhật ngang (Hoành phi)
-Hình vuông (Ðấu phương) Tùy theo thư tác có khổ lớn hay nhỏ, dài hay ngắn mà có
thể đóng một, hai, hoặc ba dấu triện. Vị trí các dấu triện đều có ý nghĩa riêng
của nó.
Thư pháp Việt ngữ không hoàn toàn theo qui ước đóng dấu của người Trung Hoa mà
theo cách thực hành sau đây :
Khi tác giả vừa là tác giả nội dung (Ý) vừa là tác giả hình thức (Hình) ; hoặc
tác giả Hình nhưng Ý là các câu văn thơ cổ (hết bản quyền) thì con dấu ở vị trí
dưới, phải. Hoặc có thể thêm một dấu ở trên, trái như dấu treo. Như vậy được gọi
là Toàn triện.
-Hình mặt quạt (Phiến diện) (coi hình dưới đâÿ) Khi tác giả Hình viết Ý của tác
giả khác (văn, thơ...) nhưng chưa có sự đồng ý của tác giả đó thì con dấu của
tác giả Hình đặt bên dưới, phải, còn bên trái ghi tên tác giả Ý và người viết
phải ghi « thủ bút » hoặc « viết ». Vị trí nầy tạm gọi là Bán triện
Khi tác giả Hình viết Ý của tác giả khác (văn, thơ...) nhưng chưa có sự đồng ý
của tác giả đó thì con dấu của tác giả Hình đặt bên dưới, phải, còn bên trái ghi
tên tác giả Ý và người viết phải ghi « thủ bút » hoặc « viết ». Vị trí nầy tạm
gọi là Bán triện
Trường hợp ngoại lệ : vì lý do bố cục mà người viết không thể sắp xếp được vị
trí nơi đóng dấu thì được đặt dấu ở vị trí khác nhưng phải ghi rõ tác giả về Ý.
Vị trí nầy tạm gọi là Ngoại triện./